Dược tề liệu pháp là phương pháp xông, xoa, bôi, đắp… thuốc vào rốn để trị bệnh.
Phương pháp chữa bệnh độc đáo này có một lịch sử lâu đời, được ghi lại sớm nhất trong y thư kinh điển Nội kinh Tố vấn rồi sau đó được bàn luận và phát triển trong các sách thuốc nổi tiếng khác như Thiên kim yếu phương, Ngoại đài bí yếu… chữa nhiều mặt bệnh khác nhau, trong đó có rối loạn dương cương - chứng bệnh được Đông y gọi là “dương nuy”. Bài viết này xin được giới thiệu một số phương thuốc điển hình để các thầy thuốc và người bệnh tìm hiểu, nghiên cứu và sử dụng:
Phương 1 (dán thuốc): phụ tử, xuyên ô, thiên hùng mỗi vị 6g; quế tâm, quế chi, tế tân, can khương, xuyên tiêu mỗi vị 60g. Tất cả thái vụn ngâm trong dầu vừng (mùa xuân 5 ngày, mùa hạ 3 ngày, mùa thu 7 ngày, mùa đông 10 ngày), sau đó đun sôi bỏ bã rồi lại đun sôi tiếp, từ từ bỏ hoàng đơn vào, quấy đều thành dạng cao, đựng trong lọ kín dùng dần. Khi dùng, quết cao thuốc lên giấy bản hoặc vải rồi dán vào rốn hoặc đan điền (tương ứng với huyệt huyết hải, ở thẳng dưới rốn 1,5 tấc). Đây là phương thang được ghi lại trong sách Trương Thị Y Thông, có công dụng ôn thận noãn tỳ, bổ dương cường tráng, dùng để chữa bất lực thuộc thể Thận dương hư suy, ngoài ra còn chữa chứng di tinh, tinh lạnh và muộn con.
Phương 2 (băng cao thuốc): tiểu hồi hương và bào khương lượng bằng nhau, sấy khô tán bột, thêm một chút muối ăn rồi hòa với một chút sữa người hoặc mật ong hoặc tiết gà thành dạng cao, đắp vào rốn, dùng băng cố định, 5 ngày thay thuốc 1 lần. Công dụng: bổ mệnh môn hỏa, ôn thận trợ dương, làm ấm tỳ vị, chuyên dùng để chữa chứng liệt dương.
Phương 3 (băng thuốc): hành tươi 1 củ, giã nát, đắp vào rốn rồi dùng băng cố định bên ngoài, mỗi ngày sáng và tối thay thuốc một lần. Phương thang này ghi trong sách Tứ xuyên trung y, có công dụng ôn dương tán hàn, lưu thông kinh lạc, chuyên trị liệt dương do hàn tà xâm nhập.
Phương 4 (đắp cao thuốc): phụ tử 1 củ to, khoét lỗ, ngũ vị tử, hoàng kỳ sao, lưu hoàng mỗi vị 6g; xuyên sơn giáp 2 miếng, tất cả sao khô tán bột rồi nhét vào trong củ phụ tử, đem đun với 250ml rượu trắng bằng lửa nhỏ cho đến khi rượu cạn thì lấy ra nghiền nát thành dạng cao. Trước tiên cho 0,3g xạ hương vào rốn rồi đắp cao thuốc lên trên, dùng băng cố định lại, 3 ngày thay thuốc 1 lần, 10 lần là 1 liệu trình. Phương thang này chép trong sách Quý Châu dân gian phương dược tập, có công dụng ôn bổ mệnh môn hỏa, trừ hàn ôn dương, bổ khí thông mạch, hoạt huyết thu liễm, chuyên dùng để chữa liệt dương, thông thường sau 3 lần là có hiệu quả.
Phương 5 (đắp thuốc): dâm dương hoắc 52g, sà sàng tử 36g, ngô công 15g, băng phiến 9g, tất cả sấy khô tán bột, trộn với nước ép từ hành củ tươi thành dạng cao rồi đắp vào rốn, kế đó dùng ngón tay cái hai bên thay nhau ấn từ từ lên trên, mỗi lần từ 10-20 phút, mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng khi thức giấc và buổi tối trước khi đi ngủ. Công dụng: ôn thận tráng dương, khu phong trừ thấp, chuyên dùng để chữa chứng dương vật không cương hoặc có cương nhưng không cứng, xuất tinh sớm, hoạt tinh, di mộng tinh…
Cao khô dâm dương hoắc.
Phương 6 (dán thuốc): mộc miết tử, tế tân, xuyên ô, thảo ô, phụ tử chế, thiềm thừ, hùng hoàng, sà sàng tử, nhục thung dung, kỷ tử, địa cốt bì, mạch môn, mộc hương, sinh đằng, tỏa dương, ba kích, phòng phong, nhân sâm, bạch linh, đinh hương, quế nhục, một dược, đậu khấu mỗi thứ 5g; cẩu cốt 100g, hải mã 60g, long cốt 30g, thạch yến tử 30g, vân mẫu thạch 30g. Tất cả đem sắc kỹ, bỏ bã rồi cô thành dạng cao đặc, khi dùng phết cao thuốc lên giấy bản hoặc vải mỏng dán vào rốn. Phương thang này được ghi trong sách Nhiếp Sinh bí phương yếu quyết, chương Phòng trung kỳ thư, có công dụng làm ấm hạ nguyên hư lãnh khiến cho dương vật cương cứng.
Phương 7 (đặt thuốc): đại phong tử, lưu hoàng, dương khởi thạch, sà sàng tử, hương phụ, phỉ tử mỗi thứ 3g, dế mèn 1 con, xạ hương 3g. Tất cả sấy khô tán bột, luyện với mật ong làm hoàn, mỗi ngày dùng 1 viên đặt vào rốn, cố định bằng băng dính. Phương thang này cũng được ghi trong sách Nhiếp sinh bí phương yếu quyết, chuyên dùng để chữa dương nuy, làm cho tăng độ cương cứng của dương vật và phòng chống xuất tinh sớm.
Phương 8 (đắp cao thuốc): lưu hoàng, dương khởi thạch, bạch tật lê, tế tân mỗi vị 30g; ngô thù du 15g, xuyên sơn giáp 10g, băng phiến 5g, tất cả sấy khô tán bột, mỗi lần lấy bột thuốc 3g hòa với nước cơm thành dạng cao rồi đắp lên rốn, cố định bằng băng dính, 2 ngày thay thuốc 1 lần. Thông thường sau 15 ngày là có chuyển biến, sau 2 tháng là có hiệu quả tốt.
Cao thuốc dán vào rốn hoặc đan điền chữa chứng di tinh, tinh lạnh và muộn con.
Phương 9 (đắp cao thuốc kết hợp chườm nóng): lưu hoàng, bạch thược, bạch phàn, cam thảo và phỉ tử lượng bằng nhau, tất cả sấy khô tán bột, hòa với rượu trắng thành dạng cao rồi đắp lên rốn, dùng băng cố định bên ngoài, mỗi buổi sáng khi thức dậy và buổi tối trước khi đi ngủ dùng túi kín đựng nước nóng chườm lên rốn trong 20-30 phút, 15 ngày là một liệu trình. Công dụng: ôn bổ mệnh môn hỏa, cường thận tráng dương và thu liễm, chuyên dùng để chữa chứng liệt dương.
Phương 10 (đắp bột thuốc kết hợp day ấn): ngô thù du 5g, tế tân 1g, quế chi 1g, tất cả sấy khô tán bột. Trước tiên, trải một mảnh gạc mỏng lên trên rốn rồi đổ bột thuốc, lại trải tiếp một lớp gạc nữa rồi dùng băng cố định bên ngoài. Mỗi tối trước khi đi ngủ dùng ngón tay cái day ấn rốn trong 5-10 phút, 2 hoặc 3 ngày thay thuốc 1 lần. Công dụng: tán hàn thông lạc, cường dương cố tinh, chuyên dùng để chữa liệt dương, thông thường sau 15 ngày sẽ có hiệu quả rõ rệt.
ThS. Hoàng Khánh Toàn