BỆNH ĐÁI DẦM- góc độ thường thức.

BỆNH ĐÁI DẦM - góc độ thường thức.

✴ Đái dầm, nó thường chỉ là một giai đoạn phát triển. Đái dầm cũng được gọi là đái không thể giữ được ban đêm. Nói chung, đái dầm trước tuổi 6 hoặc 7 là không đáng quan tâm. Ở tuổi này, ban đêm chỉ đơn giản là kiểm soát bàng quang có thể không được thành lập.

Nếu tiếp tục đái dầm, chữa trị các vấn đề với sự kiên nhẫn và hiểu biết. Bàng quang được tập luyện, báo động độ ẩm hoặc thuốc có thể giúp giảm đái dầm.

🔸Nguyên nhân:
Không ai biết chắc chắn những gì gây ra đái dầm, nhưng yếu tố khác nhau có thể đóng một vai trò.
✅Bàng quang nhỏ. Bàng quang có thể không phát triển đủ để giữ nước tiểu được sản xuất vào ban đêm.
✅Bàng quang phát triển chưa hoàn thiện. Nếu các dây thần kinh kiểm soát bàng quang chậm trưởng thành, khiến một bàng quang có thể không nhận đày đủ xung động kích thích khi ngủ - đặc biệt là nếu là ngủ sâu.
✅Mất cân bằng hormone. Trong suốt thời thơ ấu, một số trẻ em không sản xuất đủ hormone chống lợi tiểu (ADH) để làm chậm sản xuất nước tiểu vào ban đêm.

1⃣. Di truyền
Đái dầm tiên phát thường mang tính di truyền. Nếu cha và mẹ từng đái dầm khi nhỏ, nguy cơ đái dầm của con cái sẽ là 77%. Tỷ lệ này giảm còn 44% nếu chỉ bố hoặc mẹ từng đái dầm, và còn 15% nếu không ai trong cha mẹ từng đái dầm.
2⃣. Giảm dung tích chức năng bàng quang
Ở nhóm trẻ này, thể tích bàng quang vẫn bình thường nhưng khả năng chứa nước tiểu lại thấp hơn so với bạn bè cùng trang lứa. Ban ngày, trẻ phải đi tiểu thường xuyên hơn, đôi khi phải chạy vội vào nhà vệ sinh để tránh sự cố. Khả năng giữ nước tiểu qua đêm cũng thấp hơn.
3⃣. Tăng sản xuất nước tiểu về đêm
Ban đêm não sản xuất một loại hoóc môn gọi là vasopressin, giúp làm giảm lượng nước tiểu sản xuất ở thận, cho phép chúng ta ngủ tới sáng mà không phải dậy đi tiểu. Sản xuất không đủ hoóc môn này có thể gây đái dầm.
4⃣. Không thể tỉnh giấc
Một số trẻ đái dầm không có khả năng tỉnh giấc khi bàng quang đạt dung tích tối đa.
5⃣. Táo bón
Khi trực tràng bị đầy, phân có thể ép vào bàng quang, khiến cơ quan này "hiểu nhầm" và gửi tín hiệu thần kinh tới não như khi bàng quang bị đầy. Trực tràng đầy phân cũng làm giảm dung tích bàng quang hoặc khiến trẻ không thể làm rỗng tối đa cơ quan này.
6⃣. Các yếu tố tâm lý
Trẻ có thể bị đái dầm thứ phát sau những căng thẳng đáng kể như chuyển nhà, chuyển trường, mất người thân, cha mẹ ly dị hay bị lạm dụng tình dục. Đái dầm thường mất đi khi rắc rối tâm lý được xử lý. Tuy nhiên, cha mẹ cần nhớ rằng rắc rối tâm lý không gây đái dầm tiên phát.
7⃣. Lạm dụng tình dục
Lạm dụng tình dục có thể là một yếu tố gây đái dầm ở trẻ trước đó không gặp khó khăn trong vấn đề này. Cần nghĩ tới lạm dụng tình dục nếu thấy trẻ có các biểu hiện: nhiễm trùng tiết niệu mạn tĩnh, ra nhiều chất tiết vì bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục, ngứa hoặc đau ở bộ phận sinh dục.
8⃣. Các tình trạng bệnh lý
Đái dầm có thể xuất hiện ở một số bệnh lý như bệnh thiếu hồng cầu hình liềm, nhiễm trùng tiết niệu, tiểu đường và một số bệnh lý thần kinh. Nguyên nhân này chỉ chiếm 3% trường hợp đái dầm.
🔸🔸 Các triệu chứng
Đái dầm có đặc điểm là đi tiểu không tự nguyện vào ban đêm.
Hầu hết trẻ em có đủ hệ tiết niệu hoàn thiện vào 4 tuổi, nhưng thực sự không phải trẻ nào cũng có thể kiểm soát tiểu đêm ở độ tuổi này. Có khoản 15% trẻ đái dầm ở độ tuổi 5 tuổi. Giữa 8 và 11 tuổi, ít hơn 5 phần trăm trẻ vẫn còn đái dầm.

🔸🔸Tham khảo ý kiến bác sĩ nếu:
- Vẫn đái dầm sau khi 5 hoặc 6 tuổi.
- Bắt đầu ướt giường sau một thời gian khô vào ban đêm.
- Đái dầm có kèm với đi tiểu đau, khát nước không bình thường, nước tiểu màu hồng.

-NGUỒN:Hội nhà thuốc, quầy thuốc Việt Nam

VIẾT BÌNH LUẬN CỦA BẠN:
Hiển thị tất cả kết quả cho ""